Ví dụ, các em học sinh lớp một nhìn thấy một tập hợp các dấu hiệu màu đen trên nền giấy trắng, các dấu hiệu đó có nghĩa là Con mèo ngồi trên chiếc mũ. Vì thế, bạn cũng nên đọc xong tác phẩm và hiểu nó rồi mới đọc đến lời bình. Nhưng tất cả sự nỗ lực đó sẽ là lãng phí nếu họ không biết làm sao để đọc sách nhanh hơn người khác.
Lịch sử của một từ có chứa các thông tin về quá trình biến đổi vật chất, cách viết và cách phát âm; nêu lên các nghĩa chuyển; phân biệt nghĩa cổ; ít hoặc không sử dụng nữa với nghĩa hiện đại, thông dụng; phân biệt thành ngữ, từ thông tục hoặc tiếng lóng. Cả hai giai đoạn của đọc kiểm soát là các bước chuẩn bị của độc giả trước khi họ đọc kiểu phân tích. Vì thế, một khoá dạy đọc tốc độ cần dạy bạn đọc với những tốc độ khác nhau, chứ không phải tốc độ nhanh hơn tốc độ hiện thời của bạn.
Trong thực tế, toàn bộ quá trình cảm thụ này được chỉ dẫn vởi sự gặp gỡ về tư tưởng thông qua phương tiện ngôn ngữ. Ngoài những câu hỏi về sự tồn tại, còn có hàng loạt câu hỏi triết học khác liên quan đến sự thay đổi hay biến chuyển. Những câu quan trọng với tác giả là những câu diễn tả những đánh giá đóng vai trò cơ sở cho toàn bộ lập luận của ông ta.
Tất nhiên, chúng ta có thể khá chắc chắn với một vài loại thông tin lịch sử. Kinh nghiệm được dạy học cũng không phải là phổ quát vì có những người chưa bao giờ đi học. Các yếu tố của một tác phẩm giả tưởng gắn kết với nhau trong từng bối cảnh.
Thứ ba, ngay cả khi các nhân vật có hẳn một bài diễn thuyết, ví dụ như Settembrini nói về sự tiến bộ trong cuốn Magic Moutain (Ngọn núi kỳ diệu) của Thomas Mann, chúng ta cũng không thể chắc rằng đó cũng chính là quan điểm của tác giả. Tương tự như vậy, bài thơ thứ 116 nổi tiếng cũng có những dòng sau: Có một cách khác để kiểm tra xem bạn có hiểu nhận định ẩn trong câu bạn đọc hay không.
Tốt nhất là bạn tự viết được một bản tóm tắt trong quá trình đọc phân tích. Đổi lại, họ cảm thấy hài lòng sự hài lòng khó có thể có được khi đọc các sách khác. Hoặc họ không bao giờ trình bày các nguyên tắc đó một cách rõ ràng mà cứ để chúng lan toả trong các tác phẩm của mình.
Cuốn Brave New World (Thế giới mới can đảm) của Aldous Huxley lại là một tác phẩm đầy tính hùng biện khi chỉ trích những mặt trái của các tiến bộ kỹ thuật. Nhưng cả ba người đều dùng chung một động từ. Cuốn Opticks (Quang học) của Newton nói đến những thí nghiệm trong phòng với hình lăng trụ, gương và những chùm sáng được kiểm soát đặc biệt.
Hiệu quả của việc đọc được xác định thông qua sự nỗ lực nhiều hay ít, và những kỹ năng đọc của độc giả. Tuy nhiên, cả từ trừu tượng và từ cụ thể cũng có lúc khiến nhiều người lúng túng. Giao tiếp giữa người viết và người đọc chỉ thành công khi những gì người viết muốn chuyển tải có thể đi vào lòng độc giả.
Những việc như thế cần được các độc giả đọc đồng chủ đề tiến hành thường xuyên. Họ có thể biết rõ chuyện gì đang diễn ra ở một khu vực cụ thể và thuật lại các sự kiện đó trên báo, tạp chí hoặc viết thành sách. Ngay từ đầu, Euclid đã làm rõ hệ thống từ chuyên môn mà ông sử dụng.
Quy luật chung là càng nỗ lực nhiều, hiệu quả càng cao. Bạn phải tìm trong tất cả các đoạn của một chương mới thấy được những câu cần thiết để phát biểu thành một lập luận. Bất cứ một cuốn sách đạo đức nào cũng đều dạy ta cách sống, chỉ bảo ta những điều nên và không nên làm, thông tin cho ta biết về cả phần thưởng và hình phạt gắn với việc thực hiện hay không thực hiện những điều đó.